Skip to content




Thị trường

Châu á Thái Bình Dương

  • Châu phi

  • Ai Cập
  • Châu phi
  • (Algeria, Tunisia, Libya, Ma-rốc, Nigeria, Kenya, Tanzania, Nam Phi)
Công Cụ Giá

Mở khóa giá toàn cầu trên toàn chuỗi giá trị và biến dữ liệu phức tạp thành thông tin rõ ràng

Công Cụ Giá

Tạo và lưu biểu đồ của riêng bạn

Biểu đồ yêu thích

Lưu và truy cập các biểu đồ phổ biến

Tổng Quan Sản Phẩm

Phân tích sự thay đổi giá theo sản phẩm

Tổng Quan Thị Trường

Phân tích sự thay đổi giá theo thị trường

Phân Tích Lợi Nhuận

Theo dõi giá và lợi nhuận

Theo dõi giá

Theo dõi giá polymer trên toàn cầu

Công Cụ Thống Kê

Giải mã dữ liệu nhập khẩu và xuất khẩu toàn cầu để tìm hiểu về khối lượng và mô hình thương mại.

Công Cụ Thống Kê

Tạo và lưu các biểu đồ của riêng bạn

Ảnh chụp nhanh

Nắm bắt mô hình thương mại trong nháy mắt

Nước đối tác

Phân tích dữ liệu đối tác theo thời gian

Nước báo cáo

Phân tích dữ liệu nhà báo cáo theo thời gian

Chuỗi dữ liệu

So sánh số lượng, giá trị và giá

Công cụ Cung ứng

Theo dõi nguồn cung polymer toàn cầu và trực quan hóa qua các biểu đồ và bảng tương tác.

Công suất Toàn cầu

Theo dõi các nhà máy hiện tại và mới

Tin tức Sản xuất

Theo dõi thay đổi nguồn cung theo từng nhà máy

Ảnh chụp nhanh

Nắm bắt tình trạng cung cấp trong nháy mắt

Công suất Ngoại tuyến

Tìm hiểu về các sự cố công suất

Công suất Mới

Tìm hiểu bổ sung công suất mới

Đóng cửa Nhà máy

Tìm hiểu về các nhà máy đóng cửa vĩnh viễn

Cân Bằng Nguồn Cung

Phân tích cân bằng nguồn cung theo thời gian

Tùy chọn bộ lọc
Bản văn :
Tiêu chí tìm kiếm :
Lãnh thổ/Quốc gia :
Nhóm sản phẩm/Sản phẩm :
Loại tin tức :
Mục ưa thích của tôi:

Việc đóng cửa PE vô thời hạn ở Đông Nam Á: Thị trường khủng hoảng khi nhu cầu suy giảm đe dọa sự tồn tại

Được viết bởi Merve Sezgün - msezgun@chemorbis.com
  • 17/02/2025 (03:56)
Sự lạc quan trong suốt thập kỷ trước về tăng trưởng nhu cầu bền vững đã thúc đẩy việc mở rộng công suất đầy tham vọng trên khắp các thị trường polyolefin ở châu Á. Tuy nhiên tình hình đã thay đổi đáng kể. Những trở ngại kinh tế sau đại dịch, chi phí tăng vọt và sự thay đổi mô hình tiêu dùng trong bối cảnh dân số già đi đã làm đảo lộn xu hướng của ngành công nghiệp. Giờ đây, làn sóng đóng cửa nhà máy PE vô thời hạn trên khắp Đông Nam Á càng nhấn mạnh cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc, khi các nhà sản xuất phải vật lộn với tỷ suất lợi nhuận kém, tình trạng dư cung và một tương lai không chắc chắn.

Khi khu vực phải đối mặt với những thách thức này, các câu hỏi đặt ra về tác động lên xu hướng giá cả và dòng nhập khẩu. Liệu việc cắt giảm sản lượng và hạn chế nguồn cung có đủ để ổn định thị trường hay đây là khởi đầu cho thời kỳ suy thoái kéo dài của ngành hóa dầu Đông Nam Á?

Cú đánh 3 mặt vào thị trường: Chi phí cao, cung vượt cầu và nhu cầu yếu

Các nhà sản xuất lớn trong khu vực đã buộc phải tạm dừng hoặc giảm công suất hoạt động trong gần hai năm do tỷ suất lợi nhuận liên tục yếu trong bối cảnh nguyên liệu thô naphtha đắt đỏ, nhu cầu yếu và thị trường dư cung. Kể từ quý 4 năm 2024, khu vực này đã chứng kiến sự cắt giảm sản lượng sâu hơn và tình trạng ngừng hoạt động kéo dài.

Công suất sản xuất ethylene, propylene, PE và PP đáng kể của Hóa dầu Long Sơn ở Việt Nam thực sự có thể được coi là hoàn toàn mới sau khi đạt được sản lượng tiêu chuẩn vào tháng 12 năm 2023 và bắt đầu sản xuất thương mại vào tháng 1 năm 2024. Tuy nhiên, nhà máy vẫn đóng cửa từ tháng 2 đến tháng 8 do nhiều vấn đề kỹ thuật. Đó là vào khoảng giữa tháng 10, lần này công ty lại đóng cửa các nhà máy cracker và hạ nguồn do vấn đề về lợi nhuận, đồng thời các hoạt động dự kiến sẽ bị đình chỉ cho đến năm 2026. Tương tự, Lotte Chemical Titan của Malaysia và JG Summit Petrochemicals của Philippines đã thông báo kéo dài thời gian ngừng hoạt động các nhà máy PE và PP của họ, với lý do các vấn đề về lợi nhuận.

JG Summit Holdings Inc., một công ty lớn ở Philippines, đã đặt đơn vị hóa dầu của mình vào tình trạng ngừng hoạt động thương mại vô thời hạn, một động thái được mô tả là “quyết định tốt nhất” trong điều kiện thị trường đầy thách thức. Công ty sẽ tiếp tục bán từ lượng hàng tồn kho hiện có nhưng chưa đưa ra mốc thời gian để tiếp tục hoạt động.

Các nhà sản xuất naphtha ở châu Á gặp khó khănkhi chi phí ethylene tăng cao

Dữ liệu từ C-MACC và ChemOrbis cho thấy tỷ suất lợi nhuận ethylene từ hoạt động cracking naphtha của Đông Nam Á vẫn ở mức âm trong hơn một năm.

Dữ liệu C-MACC mới nhất vào tháng 1 năm 2025 chỉ ra rằng chi phí sản xuất ethylene dựa trên naphtha của châu Á cao hơn gần 5 lần so với chi phí sản xuất cracker làm từ ethane của Ả Rập Xê Út và Mỹ. Khoảng cách chi phí dai dẳng này tiếp tục làm giảm lợi nhuận của các nhà sản xuất châu Á, hạn chế khả năng cạnh tranh của họ trên cả thị trường khu vực và xuất khẩu. Với giá nguyên liệu tăng và nhu cầu hạ nguồn yếu hơn, các nhà máy cracker châu Á đang phải vật lộn để duy trì công suất hoạt động cao, có khả năng dẫn đến nhiều đợt cắt giảm sản xuất hoặc ngừng hoạt động.
Sự thiếu sức cạnh tranh so với các đối tác của họ ở Mỹ và Trung Đông là lý do chính xác tại sao khu liên hợp hóa dầu Long Sơn của SCG dự kiến sẽ vẫn đóng cửa cho đến năm 2026. Trong thời gian tạm dừng, SCG sẽ tập trung vào dự án Tăng cường Nguyên liệu Ethane trị giá 700 triệu USD dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2027. Sáng kiến này nhằm giảm chi phí và cải thiện tính linh hoạt của nguyên liệu thô. Công ty cũng đã đạt được thỏa thuận dài hạn với một chi nhánh của Enterprise Products Partners để cung cấp 1 triệu tấn ethane/năm từ Mỹ trong 15 năm. Người ta thậm chí có thể mạo hiểm suy đoán khu liên hợp Long Sơn có thể vẫn đóng cửa cho đến khi dự án ethane mới hoàn thành nếu tình hình hiện tại vẫn tiếp diễn.


Liệu cắt giảm sản xuất có thể cân bằng cung cầu?

Trong khi những hạn chế về nguồn cung đã tạm thời hỗ trợ giá cả, thì nhu cầu yếu và những bất ổn kinh tế tiếp tục tác động lên triển vọng. Việc ngừng bảo trì theo kế hoạch và cắt giảm sản xuất trên khắp châu Á và Trung Đông dự kiến sẽ thắt chặt nguồn cung trong Quý 1 và Quý 2. Tuy nhiên, người mua vẫn thận trọng về việc tăng lượng hàng tồn kho do hoạt động hạ nguồn chậm lại.

Sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, thị trường PE nhập khẩu của Đông Nam Á tăng giá khi người bán phản ứng với nguồn cung giảm từ cả khu vực và Trung Đông. Biên độ giá trung bình hàng tuần của LDPE và HDPE film tăng lên mức cao nhất kể từ cuối tháng 11, trong khi giá LLDPE film đạt mức cao nhất kể từ giữa tháng 7. Mặc dù vậy, nhu cầu khu vực yếu vẫn tiếp tục gây nghi ngờ về tính bền vững của giá cả.

Một nhà kinh doanh người Malaysia cho biết: “Nguồn cung HDPE film khan hiếm tuy nhiên người mua chỉ mua để đáp ứng nhu cầu cấp thiết.” Cách tiếp cận thận trọng này nhấn mạnh mối lo ngại về việc liệu việc tăng giá có thể được duy trì trong môi trường nhu cầu yếu hay không.

Thêm vào sự không chắc chắn, mức thuế 10% của Mỹ đối với hàng hóa Trung Quốc làm dấy lên lo ngại về khả năng gián đoạn dòng chảy thương mại. Vì Trung Quốc đóng vai trò trung tâm trong xuất khẩu hóa dầu toàn cầu nên bất kỳ sự gián đoạn nào cũng có thể tác động đến thị trường vốn đang gặp khó khăn của Đông Nam Á.

Nhu cầu PE nhập khẩu của ASEAN chững lại

Dữ liệu từ Công cụ Thống kê Pro ChemOrbis cho thấy nhập khẩu PE hàng năm của ASEAN vẫn ổn định ở mức khoảng 4,3-4,4 triệu tấn trong khoảng thời gian từ năm 2021 đến năm 2024, sau hai năm giảm liên tiếp. Mặc dù khối lượng nhập khẩu không giảm đáng kể trong 4 năm qua tuy nhiên cũng không tăng trưởng mặc dù hàng nhập khẩu có giá cạnh tranh. Sự trì trệ này báo hiệu rằng nhu cầu PE của khu vực đã ngừng tăng trưởng.

Thay đổi toàn cảnh nhà cung cấp

Mặc dù khối lượng nhập khẩu vẫn ổn định tuy nhiên cơ cấu nhà cung cấp đã thay đổi do người mua ngày càng ưu tiên những báo giá cạnh tranh nhất. Trong khi Ả Rập Xê Út và Mỹ vẫn là những nhà cung cấp chính, thị phần của họ đã biến động, cho phép các nhà xuất khẩu khác tăng cường sự hiện diện của họ.

Ả Rập Xê Út luôn là nhà cung cấp PE lớn nhất của ASEAN, tuy nhiên khối lượng xuất khẩu của nước này đã giảm đáng kể từ năm 2020 đến năm 2023, trước khi phục hồi nhẹ lên 1,8 triệu tấn vào năm 2024. Sự sụt giảm này cho thấy sự cạnh tranh gia tăng từ các nhà cung cấp mới nổi.

Tương tự, xuất khẩu của Mỹ sang ASEAN có nhiều biến động, giảm mạnh từ năm 2020 đến năm 2021, trước khi phục hồi một phần lên 1,3 triệu tấn vào năm 2023. Tuy nhiên, khối lượng lại giảm xuống còn 1 triệu tấn vào năm 2024, có thể do thách thức về chi phí vận chuyển.

Hàn Quốc, UAE, Qatar và Kuwait đã mở rộng thị phần nhập khẩu PE của ASEAN, lấp đầy khoảng trống nguồn cung mà các nhà cung cấp truyền thống để lại. Xuất khẩu của Hàn Quốc tăng gần gấp đôi từ năm 2020 đến năm 2024, nhờ khả năng cạnh tranh ngày càng tăng và quan hệ đối tác thương mại khu vực, trong khi UAE phục hồi vào năm 2024, có thể được hưởng lợi từ việc giảm xuất khẩu của Ả Rập Xê Út. Qatar và Kuwait cũng củng cố vị thế của mình, phản ánh vai trò tích cực hơn của các nhà sản xuất Trung Đông. Trong khi đó, xuất khẩu của Trung Quốc đã tăng hơn gấp đôi từ năm 2020 đến năm 2024, do tình trạng dư cung trong nước đã đẩy nhiều nguyên liệu hơn vào thị trường ASEAN, báo hiệu ảnh hưởng ngày càng tăng của nước này đối với động lực định giá khu vực.

Căng thẳng tài chính đối với nhà sản xuất


Thiệt hại tài chính đối với các nhà sản xuất Đông Nam Á là hiển nhiên. Trong năm tài chính 2024, khoản lỗ ròng của Lotte Chemical Titan Malaysia tăng lên 1,18 tỷ RM (264 triệu USD), so với 780,29 triệu RM (175 triệu USD) vào năm 2023, trong khi doanh thu giảm 2,76% xuống còn 7,44 tỷ RM (1,6 tỷ USD). Công ty dự đoán những biến động ngắn hạn do căng thẳng địa chính trị, giá dầu biến động và nhu cầu yếu trong bối cảnh dư cung ở Trung Quốc. Giám đốc điều hành Jang Seon Pyo nhấn mạnh sự ổn định trong hoạt động và hiệu quả chi phí là ưu tiên chính trong năm tới.

SCG Chemicals của Thái Lan báo lỗ ròng 7,99 tỷ baht (237 triệu USD), đảo ngược so với lợi nhuận ròng 589 triệu baht (17 triệu USD) vào năm 2023. Khu liên hợp Hóa dầu Long Sơn của SCG, vốn đã phải đối mặt với nhiều thách thức hoạt động kể từ khi thành lập, dự kiến sẽ vẫn bị đình chỉ cho đến năm 2026 do chênh lệch giá dầu không thuận lợi.
Dùng thử miễn phí
Đăng nhập